Thursday, August 18, 2016

Cộng Sản HN- Một tổ chức buôn bán con người khủng khiếp!

http://www.sbs.com.au/yourlanguage/vietnamese/vi/content/phong-van-huynh-thi-be-huong?language=vi
Cộng Sản Hà Nội được coi lá một chính thể lừng danh vì vi phạm nhân quyền nặng nề nhất tại Đông Nam Á – theo tường trình của UB Đối Ngoại Hạ Viện Hoa Kỳ. Các công ty gọi là tuyển nhân công của chính phủ do Cộng đảng kiểm soát chuyên buôn bán cung cấp con người từ nam, nữ, trẻ em cho mọi thị trường từ tình dục cho đến lao động khổ sai- đem về một nguồn lợi quá lớn cho đảng.

Thống kê dữ liệu về việc xúc tiến buôn bán con người của Cộng Sản Hà Nội lên đến mức báo động và rõ như ban ngày nhưng đừng hòng tìm thấy từ nguồn tin xác thực từ chính phủ Hà Nội. Bộ Lao Động & Thuơng Binh Xã Hội của Cộng Sản Hà Nội miễn cưỡng đưa ra con số nhỏ bé 2935 nạn nhân từ năm 2004 đến năm 2009- trong khi các tổ chức quốc tế đã có bản tường trình với con số hơn 400 ngàn người Việt Nam bị bán đi tính từ năm 1990 cho đến nay; và đó chỉ là con số của những trường hợp buôn bán con người đã bị bại lộ, còn con số những nạn nhân người Việt Nam bị (đảng) bán đi chưa bị bại lộ có thể lên đến thêm cả chục ngàn nạn nhân nữa.

Hình thức buôn bán còn người thông qua chiêu bài “xuất khẩu lao động ” không còn lạ gì đối với xã hội Việt Nam. Sau khi Cộng Sản thôn tính Việt Nam Cộng Hòa năm 1975- hàng trăm ngàn lao công đã được “xuất khẩu” sang Liên Xô và khối Đông Âu để trả nợ chiến tranh. Không biết bao nhiêu lao công Việt Nam tại Đông Âu lâm vào cảnh túng quẩn, thất nghiệp và mất khả năng tài chánh để hồi huơng. Cộng Sản Hà Nội cũng nhanh chóng trở thành một tổ chức buôn bán trẻ em, phụ nữ cho thị trường nô lệ tình dục kể từ đó.

Cộng Sản Hà Nội bị cảnh cáo về thành động khuyến khích buôn bán con người cho thị trường tình dục:

Cộng Sản Hà Nội trở thành tổ chức cung cấp nô lệ tình dục và lao động khổ sai chủ yếu trên thế giới- thậm chí có nhiều trường hợp nạn nhân từ lao động khổ sai bị ép trở thành nô lệ thình dục.

Xảo trá và lường gạt trong hôn nhân là một cách để Cộng Sản Hà Nội buôn bán phụ nữ cho thị trường tình dục. Mồi để nhử các nạn nhân là năm ngàn dollar Mỹ, một số tiền quá lớn khiến các gia đình thôn quê dưới chế độ XHCN hầu hết là nghèo rất khó mà từ chối. Phụ nữ và các bé gái dưới vị thành niên từ đó được bán qua thị trường tình dục ở Campuchia, China, Lào, Thái Lan, Malaysia, Đài Loan, Ma cau, Trung Đông, và ngay cả Âu châu. Tương tự, trẻ em ở Campuchia cũng được bán vào Việt Nam để giúp Việt Nam nhanh chóng trở thành một nơi thiên đường du lịch cho huởng lạc tình dục trẻ em đối với du khách khắp nơi từ Nhật, Nam Hàn, Trung Cộng, Dằi Loan,Anh, Úc, Âu châu , và ngay cả du khách từ Hoa Kỳ. Tàn nhẫn và phi truyền thống luân lý hơn hết, phụ nữ Việt Nam còn được “xuất” hay bán sang các nước chỉ để làm “thợ đẻ” không thôi- tức là đẻ con cho những gia đình không thể sinh con hoặc đẻ con để cung cấp cho “thị trường con nuôi” mà khách hàng là những gia đình ở các quốc gia giàu có.

Một trường hợp điển hình tại nước Nga:

Cô Danh đã tường trình trước Quốc Hội Hoa Kỳ về đường dây từ Việt Nam có Cộng đảng bảo kê buôn bán phụ nữ sang Nga thông qua dụ dỗ lừa gạt là sẽ có lương hậu, thu nhập cao cho những nạn nhân này khi họ sang Nga làm tiếp đãi viên. Thực tế, họ bị bán vào các nhà thổ tại Moscow. Đường dây buôn bán phụ nữ này được tổ chức bởi các công ty quốc doanh tuyển người, đem đến không biết bao nhiêu là tiền cho các đảng viên. Còn các nạn nhân khi đến Nga bị giữ passport, chẳng được trả đồng lương nào cả và không có sự chăm sóc sức khỏe hay những hổ trợ để quay về lại quê nhà. Nhiều phụ nữ Việt Nam đã bị cầm cố tại những nhà thổ ở Nga hơn bốn năm trời và luôn bị đánh đập tàn nhẫn nếu muốn rời khỏi hay cố tình bỏ trốn. Và dù là bị cầm cố như vậy, họ vẫn phải trả tiền nhà, tiền ăn tiền quần áo(?!)

Người em gái của cô Danh là cô Huỳnh Thị Bé Hương là một trong những nạn nhân chịu cảnh thảm thiết này từ chính sách buôn bán con người của đảng. Khoảng sau vài tháng bị giam cố nghiệt ngã, Huơng phải nhờ gia đình nghèo khó của cô gởi tiền để lo sức khỏe – gia đình cô lật đật gởi 300 dollar Mỹ để giúp cô. Sau đó, cô lại gọi về nhờ giúp 2000 dollar Mỹ để bay trở về sau khi công ty quốc doanh tuyển người (để bán) tại Việt Nam đồng ý hủy hợp đồng. Cô Danh đang ở Mỹ mượn tiền để gởi đến cơ quan này, rồi số tiền đòi hỏi cứ tăng kên, từ 2000 dolllar lên 4000 dollar, rồi 6000 dollar- rõ ràng, đây là cách giữ người siết tiền của đường dây buôn người hợp pháp này.

Vào tháng Hai năm 2013, sau 13 tháng làm nô lệ tình dục, cô Hương trốn khỏi nhà Thổ cùng với ba nạn nhân Việt khác. Cô Hương ráng liên lạc với tùy viên sứ quán Nguyễn Đông Triều tại tòa đại sứ Cộng Sản Hà Nội ở Moscow xin cầu cứu giúp- Triều nhẫn tâm làm ngơ và nói với cô Huơng rằng:”Cơ quan nào đem cô đến đây thì bảo cơ quan đó đem cô về!” Hai ngày sau, cô Huơng cùng ba người trốn đi bị bọn băng đảng bắt về lại nhà thổ và bị đánh đập tàn nhẫn. Sau đó, cô Huơng mới khám phá ra má mì của nhà thổ này là bạn mần ăn, ăn thông với các tùy viên sứ quán của Cộng Sản Hà Nội tại Moscow- nên cô Huơng cùng ba người trốn đi đã bị bán rẽ bởi bọn cán bộ đảng viên làm ở sứ quán.

Khi cô Danh biết được tình trạng thảm khốc của người em gái minh, cô đã liên lạc được với hai tổ chức phi chính phủ tại Mỹ thay vì liên lạc với nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội cố tâm bán rẽ con người, đó là hội “Boat people SOS” và liên hội “Coalition to Abolish Modern-Day Slavery in Asia” chuyên hổ trợ cho các hoạt động chống buôn người- nhờ vậy, cô Danh có cơ hội thông báo chi tiết nội tình cho Dân Biểu Al Green và Bộ Ngoài Giao Hoa Kỳ . Thông qua nỗ lực vận động chung của hai hiệp hội trên cũng như của Dân Biểu Green cùng báo chí, cô Huơng cuối cùng cũng đã có thể về lại quê nhà với điều kiện rất ngặt nghèo là gia đình cô Huơng bị buộc phải chấm dứt mọi truy tố hay tố cáo cơ quan “tuyển người” của đảng là tổ chức bán buôn người trá hình trước công pháp, cũng như phải chính thức xin lỗi má mì của nhà thổ này là Thúy An về việc kết án bà ta buôn bán tình dục trên thân phận những thiếu nữ nghèo. Không những vậy, cô Danh còn buộc phải viết một lá thư…”cám ơn” các tùy viên sứ quán Cộng sản Hà Nội tại Moscow ”giúp đỡ” cô Huơng quay về.

Cuối cùng, cô Huơng cũng đã được chở đến sứ quán của Cộng đảng tại Moscow- tại đây, cô được tùy viên sứ quán là Kiên giải thích về các điều kiện liệt kê trên và cô Huơng bị buộc phải viết một lá thư khẳng định những gì cô báo cho gia đình về má mì Thúy An là hoàn toàn bịa đặt cũng như phải viết một lá thư “cám ơn” nhân viên toàn đại sứ cùng má mì Thúy An đã giúp cô trở về quê nhà (?!)

Hai cô Phạm Thị Bé Trang và Huỳnh Thị Bé Hương (bên phải) sau khi được giải thoát từ Nga trở về Việt Nam (Ảnh CAMSA)

Đương nhiên là tòa đại sứ Cộng Sản Hà Nội tại Moscow không những không giúp mà còn làm ngơ trợ giúp má mì Thuy An gia hại các nạn nhân – cô Huơng thoát được thảm cảnh hoàn toàn là do áp lực ngoại giao từ phí Hoa Kỳ cũng như nỗ lực từ thiện của hai tổ chức phi chính phủ kể trên và sự tận tâm hổ trợ của giới báo chi truyền thông quốc tế. Cộng Sản Hà Nội thiệt là dối trá và nhẫn tâm!

Buôn bán lao động khổ sai:

Cộng Sản Hà Nội “xuất khẩu” hay bán con người ra nước ngoài lao động khổ sai nhằm giảm bớt đối kháng bất mãn trong lòng xã hội, một kế sách đã được thông chế Tito thực hiện ở Nam Tư trước đây. Tito là một tên Cộng Sản tàn bạo ngồi ở ghế “tổng thống suốt đời” cho đến khi chết vào năm 1980.

Cộng Sản Hà Nội đẩy mạnh xuất khẩu bán buôn con người cho các thị trường lao động khổ sai khắp nơi trên thế giới nhằm che giấu bất lực của nhà cầm quyền trong việc tạo công ăn việc làm ngay tại đất nước và đồng thời, tạo ra một khoản thu nhập lớn đem về cho đảng.

Năm 2007, ngân sách của đảng đã thu về được hai tỷ Mỹ kim từ sự bán buôn uất khẩu con người cho lao động khổ sai. Việt Nam hiện có khoảng 51.4 triệu người đang ở tuổi lao động và 70% dân số là dưới 30 tuổi. Bất chấp đẩy mạnh buôn bán con người tối đa, Cộng đảng vẫn phải lo đối phó sự bất mãn của gần 10 triệu người thất nghiệp, theo thống kê của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế IMF.

Cộng sản Hà Nội cố bán ra thế giới khoảng 500 ngàn người cho thị trường lao động khổ sai vào năm 2005, và con số bán lao động khổ sai ra thị trường thế giới cứ mỗi năm mỗi tăng. Vào năm 2008, Cộng Sản Hà Nội đạt được thoả hiệp với Qatar, nâng tổng số lao động khổ sai bán qua vùng Vịnh từ 10 ngàn lên đến 100 ngàn cho đến hết năm 2010, gấp mười lần con số của những năm trước

Cấu Trúc hệ thống buôn bán con người của Cộng Sản Hà Nội:

Tất cả các công ty quốc doanh tuyển nhân công để bán ra nước ngoài cho thị trường lao động khổ sai đều là một bộ phận trong một hệ thống buôn bán con người rất chặt chẽ tinh vi của Cộng đảng- liên quan đến nhiều viên chức cao cấp trong đảng, hệ thống ngân hàng.

Các nạn nhân nghèo trước hết bị lừa khi ký các hợp đồng láo gọi là “hợp đồng nội” hay hợp đồng trong xứ, có nhiều hứa hẹn ba xạo về điều kiện việc làm tốt đẹp. Sau đó, các nạn nhân nghèo phải mượn nợ từ các nhà băng ngân hàng quốc doanh cũng của đảng để trả các khoản phí giấy tờ, tiền giấy máy bay, tiền đào tạo. Nếu không đủ kinh phí, bậc phụ huynh phải bán luôn điền sản nhỏ nhoi của mình để cho con cái có đủ kinh phí nộp đơn đi lao động khổ sai.

Sau khi đã nộp không biết bao nhiêu thứ phí không bồi hoàn cho đúng thủ tục của “hợp đồng nội,” các nạn nhân trước ngày đi một hay hai ngày mới bắt đầu ký hợp đồng nội khác, hoàn tòan lật lộng với những gì trong “hợp đồng nội” ban đầu- nhưng các nạn nhân đã hết cách vì chi ra quá nhiều tiền, lún sâu trong nợ rồi nên đành phóng lao thì phải theo lao; ký bừa đồng ý cho xong mà thôi.

Khi đến được nơi lao đông khổ sai ở xứ người, các nạn nhân lúc bấy giờ bị lấy hết giấy tờ, buộc phải ký hợp đồng thứ nhì gọi là “hợp đồng ngoại” mà không có nạn nhân nào có thể từ chối cũng như hiểu là mình đang ký thỏa thuận điều gì trong bản hợp đồng ngoại này. Từ đó, cuộc đời của các nạn nhân lao vào tăm tối – làm việc lao lực khổ sai hơn 10 tiếng mỗi ngày trong điều kiện độc hại, với lương bổng vô cùng thấp và không có sự chăm sóc y tế. Có nhiều nạn nhân không được trả lương trong khi vẫn phải trả nợ cho công ty môi giới tuyển người tại Việt Nam khi mượn nợ làm thủ tục. Cuối cùng, các nạn nhân đi đến chổ suy yếu bệnh tật, không thể có tiền để quay về xứ sở, cũng như trả nợ-và nhà cửa của gia đình thì bị siết. Thảm cánh bần cùng thê thảm không thể tả.

Các tòa đại sứ của Cộng Sản thì trơ như đá không giúp đỡ gì cho các nạn nhân. Cộng Sản Hà Nội cũng vờ vịt ban hành đạo luât chống buôn người, xử án một vài vụ hời hợt cho lấy lệ để lừa qua mặt sự giám sát của Liên Hiệp Quốc hay Hoa Kỳ hoặc qua mặt các quốc gia trợ giúp chống buôn người, cho thấy rằng đảng ta cũng có quan tâm. Tất cả sự láo lừa đó chỉ nhằm che đậy chính sách buôn bán con người của đảng đang ngày được đẩy mạnh, đem đến một nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các đảng viên, từ công khai lẫn hối lộ lén lút.

Ngoài ra, có ai biết rằng tại Việt Nam hiện nay, tố cáo tham nhũng là phạm pháp hay không?

Micheal Benge

Nguyễn Trọng Dân lược dịch

© Đàn Chim Việt

Micheal Benge từng làm việc tại Việt Nam hơn 11 năm như là một quan sát viên nên ông rất am tường nhiều sự dối trá của nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội. Ông cũng là một người hoạt động nhân quyền rất tích cực. Lối viết của ông hóm hĩnh nhưng vô cùng sắc bén, cứa thẳng vào chổ ung nhọt của chế độ Cộng Sản Hà Nội.

Source:




Giải Cứu Nạn Nhân Bên Nga: 14/15

Mạch Sống, ngày 15/04/2013

Với các chuyến bay đưa thêm 4 thiếu nữ Việt trong vụ buôn nô lệ tình dục ở Nga về đến Việt Nam ngày hôm nay, tổng số nạn nhân được giải thoát đã lên đến 14 trong số tổng cộng 15 nạn nhân.

Nạn nhân duy nhất còn kẹt lại là Trang Thị Diệu, 25 tuổi, quê ở Kiên Giang.

Bốn nạn nhân mới hồi hương sáng nay gồm có: Lê thị Thu Linh (Kiên Giang), Nguyễn thị Mỹ Tiên (Trà Vinh),  Phan thị Hồng Thắm (Kiên Giang), và Nguyễn thị Kim Ngân (Hà Nội).

Hai cô Lê Thị Ngân Giang, quê ở Tây Ninh và Nguyễn Thị Mỹ Huê, quê ở Cà Mau, hồi hương 3 hôm trước đó. Người em gái của Mỹ Huê là Nguyễn Thị Mỹ Lan thì đã về từ tuần trước nữa.

Cô Thu Linh và Ngân Giang là 2 trong 4 nạn nhân đã trốn thoát ngày 2 tháng 2 nhưng sau đó bị bọn buôn người bắt lại và đánh đập dã man. Các thông tin sau này cho thấy đường dây buôn người được sự bao che của một số giới chức trong Toà Đại Sứ Việt Nam ở Nga.

Ngay sau khi 4 cô gái này bị bắt lại, Liên Minh CAMSA đã lập kế hoạch với thời điểm cuối tháng 4 này để hoàn tất cuộc giải cứu.

Ts. Nguyễn Đình Thắng, Giám Đốc Điều Hành BPSOS và là người đồng sáng lập Liên Minh CAMSA năm 2008, cho biết là kế hoạch này gồm 3 mũi.


Cô Danh Hui và Ts. Nguyễn Đình Thắng tại buổi điều trần ở Quốc Hội,
ngày 11/04/2013 (ảnh RFA)


“Trước hết là phải bảo vệ an nguy và mạng sống cho nạn nhân, nhất là các nạn nhân đã trốn đi và bị bắt lại”, Ts. Thắng giải thích.

Trong mũi này, Liên Minh CAMSA đã vận động sự nhập cuộc của giới truyền thông Việt ngữ, Hoa Kỳ và quốc tế.

“Chúng tôi muốn bắn tiếng cho ổ buôn người là vào thời điểm ấy, chúng tôi biết là những nạn nhân ấy vẫn còn sống và nằm trong tay họ”, Ts. Thắng giải thích. “Nếu sau này các nạn nhân bị mất tích hay thủ tiêu thì cả thế giới biết thủ phạm là những ai.”

Mũi thứ hai nhằm vô hiệu hoá sự bao che của một số giới chức Toà Đại Sứ Việt Nam đối với đường dây buôn người. Theo các nạn nhân đã hồi hương cho biết, chủ động mãi dâm nơi các nạn nhân bị giam hãm có quan hệ mật thiết với một số giới chức trong Toà Đại Sứ. Các giới chức này một mặt che chở, mách nước cho bà chủ chứa, mặt kia áp lực các nạn nhân phải rút lại lời tố cáo và phải nói tốt cho bà ta.

Để thực hiện điều này, Liên Minh CAMSA đã phối hợp với thân nhân ở Hoa Kỳ và Canada của một số nạn nhân để kêu gọi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, nhiều dân biểu Hoa Kỳ và một số giới chức  chính quyền Canada lên tiếng với chính quyền Việt Nam.

Ngày 11 tháng 4 vừa qua, cô Danh Hui, chị ruột của cô Huỳnh Thị Bé Hương là nạn nhân đã được giải cứu và hồi hương đầu tiên, đã về điều trần ở Quốc Hội về tình cảnh của người em gái và 14 thiếu nữ Việt đồng cảnh ngộ.



Trong mũi thứ  ba, Liên Minh CAMSA đã cung cấp thông tin, qua Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, cho cảnh sát liên bang Nga để truy nã thủ phạm.

Ts. Thắng giải thích: “Liên tục phải di chuyển để trốn tránh công lực Nga, thủ phạm hiểu rằng phải thả hết nạn nhân thì may ra mới dễ đào tẩu hoặc giảm tội nếu bị bắt.”

Kế hoạch vừa bảo vệ nạn nhân, vừa ly gián hệ thống ô dù, vừa truy quét thủ phạm đã giúp giải thoát cho 14 trong số 15 nạn nhân.

Với kế hoạch ba mũi kể trên, Ông tin rằng cuộc giải cứu sẽ hoàn tất nội trong tháng 4.

Ts. Thắng cho biết rằng hầu hết các nạn nhân khi về nước đều còn mang những dấu hiệu chấn thương do bị đánh đập một cách thô bạo trong thời gian còn nằm trong tay của ổ buôn người ở Nga.

Ngày Thứ Năm 18 tháng 4 này, Ts. Thắng sẽ điều trần ở Quốc Hội Hoa Kỳ về đường dây buôn người từ Việt Nam sang Nga.

Bài liên quan:

Quốc Hội Hoa Kỳ Tổ Chức Điều Trần Về Nhân Quyền Ở Việt Nam:
Phát biểu của cô Danh Hui
http://machsong.org/modules.php?name=News&file=article&sid=2643

Nạn Buôn Người: Đề Phòng Để Không Thành Nạn Nhân
http://machsong.org/modules.php?name=News&file=article&sid=2650



Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới Ở Á Châu, viết tắt là CAMSA (Coalition to Abolish Modern-day Slavery in Asia) trong tiếng Anh, hiện gồm 4 tổ chức thành viên: BPSOS, Liên Hội Người Việt Canada, Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc Tế (Đức), và Tenaganita (Mã Lai). Sau bốn năm hoạt động, Liên Minh CAMSA đã can thiệp cho trên 60 vụ lớn nhỏ, ảnh hưởng đến trên 4 nghìn nạn nhân. Liên Minh CAMSA cần sự yểm trợ của đồng bào để tiếp tục phát triển hoạt động nhằm can thiệp và trợ giúp nạn nhân, truy tố thủ phạm, và thúc đẩy những thay đổi về chính sách của các quốc gia liên hệ.

Mọi đóng góp yểm trợ cho Liên Minh CAMSA, xin đề cho và gởi về:

BPSOS/CAMSA
PO Box 8065
Falls Church, VA 22041 – USA

May 4, 2013
Communist Vietnam -- Human Trafficker Extraordinaire
By Michael Benge

Vietnam is now the proud possessor of the inglorious title "The Worst Human Rights Violator in Southeast Asia," according to recent testimony before the House Committee on Foreign Affairs. State-affiliated labor export companies are major suppliers of men, women, and children to the forced labor and sex trafficking markets, while government officials profit from kickbacks.

Statistics on Vietnam's human trafficking range widely; though accurate information about this communist country is hard to find. Vietnam's Ministry of Public Security offers an official figure of 2,935 Vietnamese who were subjected to human trafficking between 2004 and 2009. However, international organizations report a far larger number; more than 400,000 victims since 1990. Even this covers only those reported as victims, omitting untold tens of thousands of abuses that go unnoticed, especially in the labor force.

Exporting workers is nothing new for Vietnam. After the 1975 communist takeover, hundreds of thousands of laborers were sent to the Soviet Union and European Eastern-Bloc countries as a form of war debt payment. Many ended up jobless, in debt, and stranded. Vietnam quickly graduated from supplying forced labor to trafficking women and children as sex slaves.

State-Sanctioned Sex Slavery

Vietnam is a primary supplier for commercial sexual exploitation, as well as forced labor -- and some who start out as laborers also wind up as sex slaves. Fraudulent or misrepresented marriages are one method by which Vietnamese women are exploited. The lure of marriage to a man in a comparatively rich country, coupled with a promised payment of up to $5,000 (ten times the average annual wage in Vietnam), is often too great a temptation for rural women and their impoverished families to resist. Women and children are sent to Cambodia, China, Laos, Thailand, Malaysia, Taiwan, Macau, the Middle East, and Europe. In turn, Cambodian children are trafficked to urban centers in Vietnam. Increasingly, Vietnam is a destination for child sex tourism, with perpetrators visiting from Japan, the Republic of Korea, China, Taiwan, the UK, Australia, Europe, and the U.S. Women are also shipped to other countries to serve as surrogate mothers. Some are forced to produce babies for families that cannot have their own, while others have their babies sold for adoption by foreigners, primarily from Western countries.

Russia: a Case in Point

Ms. Hui Danh recently testified about a sex-trafficking and extortion ring that lured young Vietnamese women to Russia with promises of high-paying jobs (by Vietnamese standards) as waitresses. Instead they were sold to brothels in Moscow. The operation was run by government-sanctioned labor agencies, which provided kickbacks to Vietnamese officials. The passports of the young women were confiscated; they received only a pittance in pay, and had no health care or any way to return home. Some girls were held captive in Russia for more than four years, and were savagely beaten if they tried to leave the brothel. Even though they were being held against their will, they still had to pay rent and were charged for their meager food and clothing.

Ms. Danh's younger sister Be Huong was one of the sex slaves. After several months, her impoverished parents received a call asking for money to pay for medical expenses. They scraped together $300 and sent it to her. A few weeks later she called again saying that the employment agency in Vietnam had agreed to let her return home, but she would need $2,000 for air travel. Ms. Dang, who was living in the U.S., borrowed the money and sent it to the employment agency. Soon the amount was raised to $4,000, and later to $6,000; clearly, it was extortion.

In February of this year, 13 months after her enslavement, Be Huong escaped from the brothel, along with three other victims. She was able to contact the Consular Envoy, Nguyen Dong Trieu, in the Vietnamese Embassy in Moscow and begged for his help. Trieu told her that prostitution was not legal in Russia and said, "Whoever brought you here, ask them to take you home." Two days later, Be Huong and the other three victims were recaptured by the brothel guards, and the three girls with her were severely beaten. Be Huong later learned that the Madame of the brothel in Moscow was a good friend of the Consular Envoy, who had betrayed the girls.

When Ms. Danh learned of her sister's plight, she contacted two U.S. non-government organizations; Boat People SOS, and the Coalition to Abolish Modern-Day Slavery in Asia, which put her in contact with Congressman Al Green and the State Department. Through their efforts and with assistance from the media, Be Huong was returned to Vietnam, but not without costs. First, she was forced by the brothel Madame -- Thuy An -- to call her parents and ask them to withdraw their complaint to the Vietnamese police about the employment agency. Ms. Danh also had to submit a written apology to the Madame for wrongly accusing her of sex trafficking. Finally, she was also forced to write a letter to Vietnamese officials in Moscow thanking them for helping with Be Huong's repatriation. Only then was she allowed to leave.

Finally, Be Huong was allowed to go to the Vietnamese Embassy; there she was told by staff member Kien that her release was conditional. She had to write a letter stating what she had told her relatives about Madam Thuy An was inaccurate, and one thanking the embassy officials and Madam Thuy An for having helped her with repatriation.

The Vietnamese Embassy had of course done nothing, nor had Madam Thuy An, for it was only through diplomatic and media pressure that Be Huong was allowed to go home. Through continued pressure, six other victims were finally released and returned to Vietnam. Eight others remain enslaved by Madame Thuy An, with the assistance of the Vietnamese Embassy in Moscow.

Labor Trafficking

Vietnam started its labor trafficking by taking a page from the playbook of communist Field Marshal Tito, who exported surplus labor as a safety valve to reduce resistance amongst Yugoslavia's youth. Tito was an extreme and ruthless dictator (though quite popular in the West) who served as "President for Life" until his death in 1980.

Communist Vietnam now exports a great share of its labor force in an attempt to quell the unrest fermenting in that country, as well to increase revenue; in 2007, Vietnamese working in foreign countries sent home the equivalent of US $2 billion. Vietnam has a labor force of more than 51.4 million workers, and 70% of the population is under 30 years of age. Despite the labor trafficking, 12% -- 10 million -- of Vietnam's remaining workers are jobless, according to the International Monetary Fund.

The Vietnamese government set a goal to send 500,000 workers overseas in 2005, and the number has been increasing ever since. In 2008, Vietnam reached an agreement with Qatar to increase the number of workers to be sent to the Middle East from 10,000 to ten times that number by the end of 2010.

The Art of Trafficking

Many labor export companies in Vietnam are part of intricate trafficking syndicates and extortion rings, and government officials and banks are frequently involved. Applicants are deceived by contracts -- dubbed hop dong noi -- "domestic contract," that describe the type of work, good working conditions, and decent pay; however, they may have to pay as much as $10,000 just to apply. Applicants are often encouraged to seek a loan, such as one from a state-owned Agricultural and Rural Development Bank, to cover the fee, using their parents' property as collateral. If the loan is not enough, the parents have to mortgage or sell their remaining properties.

After the non-refundable application fee is paid, the workers are often given the real contract to sign only a day or so before leaving. This typically stipulates different terms than the original contract, using legal terms they cannot understand. Once in the destination country (which may not be the one they signed up for), the workers' passports and documents are confiscated and they are forced to sign yet another contract, hop dong ngoai -- "foreign contract," in a foreign language they cannot understand at all. Thus they find themselves working longer hours under substandard conditions, for much less pay than promised, with little or no access to medical care. Many times, workers are not fully paid and are held in debt bondage, while being forced to make mandatory monthly payments to the labor export company. As a result, workers cannot pay off their loans, have no money to return home, and their families lose their land and other properties.

The Vietnamese Embassies provide little or no help to these exploited people. True, the Vietnamese government has passed laws against human trafficking, and prosecutes a few cases now and then; but that is just window dressing. It's a charade to fool the UN, the U.S., and other gullible donor countries into believing that Vietnam's communist government is addressing the issue. Meanwhile, the labor and sex trade goes on with a wink and a nod from officials who are on the take. By the way, did you know it's against the law in Vietnam to report corruption?

Read more: 
Follow us: @AmericanThinker on Twitter | AmericanThinker on Facebook



Đời sống của công nhân Việt Nam đi xuất khẩu lao động
Hoàng Dung, thông tín viên RFA
2015-10-01

Đối với các công nhân đi xuất khẩu lao động, việc phải ra nước ngoài để kiếm sống đã là một hy sinh vì phải xa gia đình. Trong khi đó điều kiện làm việc và sinh sống ở những nơi đó cũng không phải hoàn toàn dễ chịu như họ tưởng. Thực tế đó ra sao?

Thu nhập

Các lao động đi xuất khẩu lao động với mong muốn tạo thêm thu nhập để nuôi sống gia đình và mong sao gia đình của họ bớt khó khăn, tuy nhiên với chi phí ra đi của họ khá đắt đỏ nên tính ra thu nhập của họ cũng không mấy sáng sủa, nhất là đối với những thị trường lao động nghèo.
Anh Nguyễn Quang Nhật làm ở Malaysia cho biết:

“Cũng tùy theo công ty, như ở bên này tiền lương cơ bản 900 Ringgit = 4.500.000Tr VND và tùy theo công việc và tỷ lệ làm thêm nữa, ở công ty em là công ty cơ khí nên nó tính giá cao hơn, 1 tháng ít nhất của em là 1.500 Rinhgit và tháng cao nhất là 2.300 Ringgit = 11.500Tr VND. Bây giờ Ringgit nó hạ nên cũng được ít nữa”

Anh Lâm Khánh Xình một lao động chui cho biết, dù lao động chui khó khăn khổ cực nhưng thu nhập còn gấp mấy lần Việt Nam:

“Anh sang Nga du lịch 3 tháng sau 3 tháng anh phải về nước nhưng anh ở lại lao động chui mỗi tháng anh làm được 500$. Cũng khổ cực lắm nhưng còn hơn ở Việt Nam. Ở Việt Nam mà làm được 500$ thì rất khó khăn thì có đi ăn cướp mới được 10 Tr VND”

Đối với những nữ giúp việc nhà thường được gọi là ‘ô sin’ hiện đang làm việc ở Ảrậpxêút thì chi phí họ đi không mất tiền; thế nhưng lại bị các công ty môi giới bán theo dạng nô lệ mới, nên họ làm việc vất vả, công việc nhiều mà thu nhập một tháng lại rất thấp. Ngoài ra thu nhập của họ còn tùy theo gia đình đó tốt hay xấu, nếu gia đình đó tốt họ sẽ trả thêm còn gia đình không tốt thì tiền lương họ trả không hết.

Chị Ngọc Hoàng Diễm Thủy cho biết thêm:

“1 tháng được 1,300 tiền tính theo Viát = 7.700Tr VND”

May mắn hơn chị Thủy thì chị Khương 1 tháng nhận được số tiền có cao hơn, dù công việc làm giống nhau:

“1 tháng lương em nhận được 1.500 Viát =8.900Tr VND tính theo bản hợp đồng thì em được nhận như vậy”

Khó khăn trong cuộc sống

Những công nhân đi xuất khẩu lao động thì họ phải xa gia đình, thiếu thốn tình cảm.

Chị Hồng làm ở Đài Loan cho biết, khi sang làm mới thấy những khó khăn:
“Khi sang đây mình mới thấy rõ cuộc sống vô cùng thiếu thốn trong sinh hoạt và trong cuộc sống hằng ngày

Anh Nhật làm ở Malaysia thì có gặp may mắn hơn vì được công ty có đối đãi tốt với công nhân, nên những khó khăn trong cuộc sống cũng ít:
“Làm ở bên này cũng ổn định, công ty nó cũng dễ với công nhân và công việc cũng nhiều”

Đối với các công nhân lao động chui thì khó khăn nhất là không có giấy tờ, nếu bị bắt thì bị phạt, anh Lâm Khánh Xình cho biết khó khăn:

“Khó khăn nhất là không có giấy tờ, làm chui bên này thì sợ công an, côn đồ”

Từ khi đi xuất khẩu lao động sang Saudi Arabia trở về nước, gia đình chị Tô Thị Dung lâm vào cảnh nợ nần chồng chất.

Các anh các chị trong dòng họ Vũ Võ hãy giúp em gái của các anh các chị với, em đi đơn hàng này không đúng như những gì hôm lên Hà Nội gặp mặt, em đến nhà chủ này một mình em phải dọn 2 nhà và trông 2 đứa trẻ con một đứa nằm liệt 7 tuổi và một 7 tháng giờ mỗi ngày em bế thằng bé 7 tuổi, lưng em rất đau không chịu được nữa rồi và một ngày em phải làm từ 6 giờ sáng đến 10 giờ 30 đêm. Các anh các chị hãy đến công ty Dầu Khí làm mạnh giúp em để em nhanh được về Việt Nam vì lưng em đau lắm, em xin mọi người giúp em với, em xin chân thành cảm ơn các anh các chị.

Có trường hợp vì lao động quá cực nhọc phải lên tiếng kêu cứu trên Facebook. Chị Vũ Thị Khương cho biết:

“Ở bên đây thì làm một ngày mười mấy tiếng, 20 tiếng cũng có, dọn dẹp Trong một ngày đầu thì vẫn phải làm hết, dọn dẹp 2 nhà to, dọn dẹp xong thì sang bên bế em bé, một đứa liệt 6 tuổi nằm giường, một thằng 7 tháng, bế lên thì đứng không được bế lên khóc thì ngồi xuống trẻ con không đứng được thì sao mà ngồi được. Còn chồng thi lại sàm sỡ mình”

Chị Hoàng Ngọc Diễm Thủy cũng cho biết:

“Cũng có khi khó khi dễ, toàn những việc không tên, thấy việc gì là làm. Nhà nào có con nít thì coi con nít, lau chùi, dọn dẹp, rửa chén bát, giặt đồ. Con người ta thức dậy thì mình cũng dậy pha sữa. Không có giờ ổn định, người ta cho gì thì mình ăn cái đó. Người ta nói gì thì mình phải tuân theo, không được cãi lại. Bên đây không có giờ giấc ổn định, làm đến 2 giờ 3 giờ, có lúc 4, 5 giờ sáng mới ngủ”

Không những là làm việc vất vả, thời gian nhiều mà các cô còn bị chủ nhà bỏ đói chị Khương cho biết thêm.

“Ăn uống của hội em thì trong hợp đồng nói là gia đình nhà chủ phải cung cấp ăn uống đầy đủ cho hội em. Nhưng sang bên này ăn uống của hội em 1 ngày chỉ được 1 bữa cơm thôi.”

Bế tắc và ước vọng

Đối với các Ô sin làm việc ở Ảrậpxêút với công việc khó khăn và lương không cao nên mong muốn của họ là được về nước sum họp với gia đình nhưng nếu về trước thời hạn thì họ phải bồi thường hợp đồng cho công ty môi giới có thể lên tới 50 Tr VND.

Chị Hoàng Ngọc Diễm Thủy cho biết:

“Nhiều lần muốn về rồi nhưng mình nghĩ giờ về thì phải đền bù hợp đồng cho người ta. Mới làm một năm nên đền bù không được. Nên phải chịu cực chịu khổ vì không làm thì phải đền bù cho người ta, dù sao cũng phải làm. Nếu mình về trước hạn thì phải đền bù cho người ta tùy theo thỏa thuận với nhau. Nếu ai làm không được thì về nhưng tiền vé thì mình phải bỏ ra chứ nó không chịu. Hợp đồng hai năm nhưng giờ mới được một năm thôi.”

Chị Hồng làm việc ở Đài Loan cho biết nguyện vọng của mình:

“Mình thật sự hy vọng quê hương mình có thể thay đổi và phát triển thật là mạnh mẽ, để thể hệ sau không còn cảnh xuất khẩu lao động bôn ba vất vả nơi xứ người như mình hiện tại”

Tương tự chị Hồng thì anh Nhật cũng có nguyện vọng tương tự:

“Em mong sao ở nhà đất nước nó phát triển để đỡ sang đây làm việc và có việc làm ổn định ở Việt Nam”

Anh Lâm Khánh cho biết lý do mà anh phải chấp nhận chịu khổ cực để ở lại Nga làm lao động chui.

“Thật sự anh làm thế này cũng mong muốn có tiền gửi về quê cho vợ con để trang trải cuộc sống, nhà cửa cho đàng hoàng”

Có thể nhận thấy nhiều người lao động Việt Nam đi xuất khẩu đang ở trong thế ‘tiến thoái lưỡng nan’. Trong khi đó ở trong nước vẫn có những người vì bế tắc không tìm được việc làm lại mong muốn ra đi. Nhiều cơ quan môi giới vẫn hoạt động nhộn nhịp như không có gì bất ổn xảy ra đối với những người mà qua họ đã đến tại nước ngoài và đang phải lao động cực nhọc chứ không như được hứa hẹn.


No comments:

Post a Comment